I. Chuỗi giá trị
Nhìn chung, hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Hiểu một cách đơn giản, ngân hàng đóng vai trò trung gian để kết nối giữa người dư thừa vốn (người gửi tiền) và người có nhu cầu vốn (người đi vay), từ đó tạo ra lợi nhuận chênh lệch từ lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay (được đo bằng NIM). Ngoài ra, ngân hàng cũng thu được lợi nhuận khá lớn từ các mảng dịch vụ đi kèm.
II. Đầu vào
1. Chi phí vốn huy động
Chi phí lãi vay (chi phí vốn huy động) là giá cả nguồn vốn mà ngân hàng huy động. Nó là chi phí mà ngân hàng phải trả cho người gửi tiền để mang nguồn vốn huy động được mang đi cho vay lại. Đây là hoạt động kinh doanh cốt lõi của ngân hàng chính vì vậy chi phí lãi vay cũng chiếm khoảng 65% tổng chi phí của ngân hàng.
Nguồn vốn ngân hàng chủ yếu huy động từ 4 nguồn: tiền gửi khách hàng, tiền gửi TCTD khác, tiền vay Ngân hàng Nhà nước và phát hành giấy tờ có giá.
Chi phí lãi vay của 3 Ngân hàng Quốc dân niêm yết trên thị trường
Vì hoạt kinh doanh tiền đặc trưng của ngân hàng, các ngân hàng cũng có đòn bẩy rất cao có thể quanh mức 10-20 lần VCSH. Cùng với lãi suất huy động, tỉ lệ đòn bẩy cũng sẽ ảnh hưởng tới tỷ trọng chi phí lãi vay của ngân hàng.
Dưới đây là tỉ lệ đòn bẩy Tổng tài sản/VCSH của 3 ngân hàng quốc dân niêm yết. Tỉ lệ đòn bẩy thường sẽ thấp hơn ở các NHTM khác, rơi vào khoảng 10-15 lần.
Một chỉ số tài chính quan trọng để đo lường chi phí vốn của ngân hàng là Tỷ lệ chi phí vốn huy động COF (Cost of Fund). COF cho biết ngân hàng phải huy động với mức lãi suất bình quân là bao nhiêu. Ngân hàng càng có lợi thế khi huy động được nguồn vốn giá rẻ thì khi cho vay ngân hàng càng được lợi.
Công thức của chỉ số COF:
COF = Chi phí lãi vay trong kỳ / Trung bình tiền gửi và vay phát sinh lãi trong kỳ
Chi phí vốn huy động của 3 ngân hàng quốc dân niêm yết
2. Chi phí hoạt động
Chi phí hoạt động là các chi phí liên quan tới việc vận hành của ngân hàng như chi phí nhân viên, khấu hao tài sản cố định, chi phí quản lý và một số chi phí khác. Chi phí hoạt động chiếm khoảng 25% tổng chi phí của ngân hàng.
3. Chi phí khác
Các chi phí khác như là chi phí dịch vụ, chi phí mua bán chứng khoán, chi các nghiệp vụ khác…
III. Đầu ra
1. Thu nhập lãi
Thu nhập lãi thuần là hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng, lãi đến từ việc ngân hàng đem tiền đi cho khách hàng vay và đầu tư, bao gồm:
- Thu lãi tiền gửi: Đây là lãi từ việc ngân hàng mang gửi tiền ở ngân hàng khác
- Thu lãi cho vay: Đây là lãi từ việc cho khách hàng vay tiền
- Thu lãi từ kinh doanh và đầu tư chứng khoán nợ: Đây là trái tức từ việc ngân hàng đầu tư trái phiếu.
- Thu phí từ nghiệp vụ bảo lãnh: lãi từ nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán.
- Thu lãi từ cho thuê tài chính
- Thu khác từ hoạt động tín dụng
Thu nhập lãi thuần thường chiếm từ 75-80% tổng thu nhập hoạt động của ngân hàng.
Thông thường, để đánh giá hiệu quả hoạt động thu nhập lãi thuần của ngân hàng, các nhà đầu tư thường tập trung và chỉ số Yield on Earning Asset (YEA, tỷ suất sinh lời của tài sản sinh lãi) và Net interest margin (NIM, tỷ lệ thu nhập lãi thuần).
2. Thu nhập dịch vụ
Bao gồm các khoản thu từ dịch vụ thanh toán, thu từ nghiệp vụ bảo lãnh, thu từ dịch vụ ngân quỹ, thu từ nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, thu từ dịch vụ tư vấn, thu từ kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, thu phí nghiệp vụ chiết khấu, thu từ cung ứng dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê tủ két và thu khác. Thu nhập dịch vụ chủ yếu đến từ dịch vụ thanh toán và bảo hiểm.
Lãi từ hoạt động dịch vụ thường chiếm khoảng 10% tổng thu nhập hoạt động của các ngân hàng. Ngày nay, nhiều ngân hàng muốn tăng tỷ trọng từ mảng dịch vụ để đa dạng hóa kinh doanh cũng như vì mảng dịch vụ cũng không phát sinh vốn ban đầu.
3. Các nguồn thu khác
Các nguồn thu khác chiếm tỉ trọng <10%, bao gồm các hoạt động như: kinh doanh vàng và ngoại hối, mua bán chứng khoán…
Nhìn chung hoạt đông kinh doanh chủ yếu của ngân hàng đến từ mảng cho vay, đầu tư và dịch vụ. Các tỷ lệ chỉ mang tính tương đối khi dùng số liệu của 3 ngân hàng quốc dân niêm yết. Trên thực tế, mỗi NHTM sẽ có chiến lược kinh doanh và khẩu vị rủi ro khác nhau vì vậy các chỉ số như NIM, COF, cơ cấu thu-chi… cũng sẽ phụ thuộc nhiều vào điều đó.